40 năm rồi - đảng phải rút cho dân hồi cư

Phạm Trần (Danlambao) - Trong 40 năm cai trị cả nước Việt Nam từ sau ngày 30/04/1975, lần đầu tiên đã có những tiếng nói từ trong lòng chế độ lên án đảng phản bội dân tộc và buôn xương máu các chiến sĩ để được yên thân với Trung Quốc bá quyền.

Những người can đảm lên tiếng không ai khác hơn đã một thời chiến đấu dưới ngọn cờ đảng, từng là đảng viên, lão thành cách mạng và văn nghệ sĩ đã nằm gai nếm mật tại các chiến trường, có người từ thời chống Pháp.

Nhưng tại sao họ đã dứt khoát như thế mà không sợ bị trù dập, bắt tù? Nhất là lại lên tiếng đúng vào dịp đảng ra sức tuyên truyền và tiêu phí tiền dân để che giấu tội hại nước, phản dân vào dịp kỷ niệm 40 năm ngày được thêu dệt là “Đại thắng mùa Xuân 1975-Giải phóng miền Nam-Thống nhất đất nước”?

Lý do vì, không riêng số người nổi tiếng này mà hàng triệu người dân trong và ngoài nước đều thấy rằng, sau 40 năm thử nghiệm mớ lý thuyết viển vông “Mác-Lênin và Tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh” và làm “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” giở giăng giở đèn mà Việt Nam vẫn chưa làm nổi con ốc vít thì chế độ này phải bị thay thế, nhất là ngày càng để mất đất, mất biển vào tay láng giềng xấu bụng Trung Quốc.

Giải phóng cái gì?

Người đầu tiên phải kể là Nhạc sĩ nổi tiếng Tô Hải (tên thật là Tô Đình Hải, sinh ngày 24 tháng 9 năm 1927 tại Hà Nội, quê ở Tiền Hải - Thái Bình.

Ông gia nhập đảng Cộng sản từ năm 1949, tham gia kháng chiến chống Pháp và làm công tác văn nghệ ở Quân khu 4 và nhiều hoạt động văn nghệ và sáng tác theo hướng nhạc dân tộc và loại nhạc gọi là “cách mạng”.

Tuy nhiên, sau năm 1975 một thời gian, Nhạc sĩ Tô Hải sống ở Sài Gòn đã phủ nhận gia tài sản âm nhạc đồ sộ của mình. Ông gọi chúng là “nhạc nô” rồi ông quyết định bỏ đảng để trở thành một Tín đồ đạo Công giáo ngày 25/5/2014. 

Ông từng được suy tôn là “nhà cách mạng lão thành” và nhận rất nhiều huân chương của Nhà Nước Cộng sản, trong đó có các Huân chương Chiến công hạng Nhì, Ba; Huân chương Chiến thắng hạng Ba, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất.

Sau khi bỏ đảng, ông trao tập “Hồi ký của một thằng hèn” cho Nhà văn Uyên Thao, Giám đốc Nhà Xuất bản Tủ sách Tiếng Quê Hương ở Falls Church, Virginia (USA), xuất bản. Rất nhiều người đã tìm đọc cuốn hồi ký nổi tiếng của Nhạc sĩ Tô Hải.

Bình luận về tuyên truyền “Giải phóng miền Nam” nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày 30/04/1975, Nhạc sĩ Tô Hải chất vấn trong bài viết ngáy 23/04/2015:

- “Giải phóng gì, hòa hợp gì mà cả triệu con người, đa số là trí thức của đối phương mà ông tướng Trà, trong lúc bốc nhằng lỡ nói với tướng Dương văn Minh rằng thì là: “Người Việt chúng ta không ai thắng thua, chỉ có đế quốc Mỹ là thất bại mà thôi” còn in nóng sốt trên khắp các báo… thì lập tức, ngay sau đó, có lệnh của “kẻ to hơn ông Trà” cho gom tất cả cán binh cao cấp bên thua trận, vào các trại cải tạo nơi thâm sơn cùng cốc để chết dần chết mòn vì… “học tập” hoặc có sống sót mà về thì cũng chỉ còn là những tấm thân tàn, ma dại nằm chờ chết? (ngay gia đình mình, “gia đình cách mệnh” như lời ông Trần văn Trà tuyên bố hẳn hoi mà cũng có người phải đi học tập đến cả 11 năm vì trót làm…trung tá – luật sư Tòa án Binh).

- Giải phóng gì hòa hợp gì mà nhà cửa, ruộng vườn, xưởng máy, xí nghiệp của bên “được giải phóng” đều rơi vào tay các ông cán bộ sử dụng cho đến tận ngày nay… 

- Giải phóng gì, hòa hợp gì mà dân miền Bắc quanh năm xếp hàng kiếm mớ rau, miếng đậu phụ theo tem phiếu, bỗng… “giàu lên” nhờ “nhận họ nhận hàng” từ miền Nam bị Đế Quốc Mỹ kìm kẹp (!) chia xẻ cho cái xe máy, cái tủ lạnh, thậm chí ít “cây vàng” để cơi nới ngôi nhà đã quá sức chứa đến 3,4 thế hệ! Thế mà, chỉ một đêm, có lệnh của bác ĐM (chiến dịch Z 200 hay 500 gì đấy), đều bị “kiểm tra hành chính”, tịch thu tài sản không lý do, lý trấu gì xất!

(Chú thích của người viết bài này: ĐM là Đỗ Mười. Năm 1977 ông là Phó Thủ tướng kiêm nhiệm Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp Xã hội chủ nghĩa, phụ trách vấn đề cải tạo Công thương nghiệp XHCN tại miền Nam)

- Giải phóng gì, hòa hợp gì mà cả nước bỗng trở thành… súc vật ăn bo bo tranh phần của ngựa, lừa nhưng vẫn phải hô to đảng ta vô cùng sáng suốt!

- Và đặc biệt vô nhị là giải phóng gì mà ba, bốn triệu người đều sợ hãi chạy suốt từ Bắc vô Nam rồi từ Việt Nam đi bất cứ nơi nào trên thế giới dù thân xác có làm mồi cho cá mập đại dương còn hơn là làm công dân của một chế độ, mà rồi đây con sẽ đấu cha, vợ đấu chồng, đồng chí đấu nhau, thậm chí bắn giết, chôn sống nhau để “đấu tranh này là trận cuối cùng”, để “bao lợi quyền ắt qua tay mình?!

Sau khi tự đặt các câu hỏi như thế, người Nhạc sĩ 88 tuổi có thời gian dài sống chết cho đảng đã gay gắt viết bằng chữ hoa như xiết từng chữ cho mọi người biết rõ thái độ của mình.

Ông viết: “ KHÔNG BAO GIỜ CÓ ĐƯỢC SỰ HÒA HỢP TRONG 90 TRIỆU CON HỒNG CHÁU LẠC NẾU NHỮNG KẺ CỘNG SẢN GÂY TỘI ÁC KHÔNG BỊ VẠCH TRẦN VÀ BỊ XÓA SỔ VĨNH VIỄN!”

Lừa dối vĩ đại

Người thứ hai, đồng đội của Nhạc sĩ Tô Hải là Nhà văn cựu Đại tá Quân đội Nhân dân Phạm Đình Trọng phát biểu ngày 22/4/2015, ông viết: "Suốt 40 năm qua, hệ thống tuyên truyền khổng lồ của đảng CSVN (Cộng sản Việt Nam) cầm quyền đã ngốn quá nhiều tiền thuế của dân, tiền bán tài nguyên đất nước vào việc tự huyễn hoặc mình và lừa dối người dân về ngày 30 tháng tư năm 1975, ngày huy hoàng đại thắng, ngày vẻ vang thống nhất đất nước.

Cuộc chiến tranh mà hệ thống tuyên truyền của nhà nước Việt Nam cộng sản vẫn thần thánh hóa là cuộc chiến tranh “Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước” thực chất chỉ là cuộc nội chiến tội lỗi, người Việt bắn giết người Việt.”

Nhà văn vào đảng ngày 19/05/1970, đi lính thành sĩ quan để xâm nhập vào chiến trường Tây Nguyên miền Nam. Nhưng ông đã tự ý ra khỏi đảng ngày 20/1/2009, vì theo thư gửi Chi bộ quận Tân Bình (TpHCM), ông nói: “Tôi tự thấy đảng Cộng sản không còn phù hợp với lí tưởng thẩm mĩ và giá trị nhân văn mà tôi theo đuổi nên tôi tự rút ra khỏi đảng.”

Ông Trọng nói thẳng với cái đảng một thời đã mê hoặc ông rằng: “Ngay từ khi phát động cuộc nội chiến phi nghĩa núp bóng cuộc chiến tranh chính nghĩa “giải phóng miền Nam”, những người cộng sản đã vẽ ra con ngáo ộp “đế quốc Mĩ” hiếu chiến, tham tàn, man rợ hù dọa người dân, đã lôi “đế quốc Mĩ” vào tham chiến để biến cuộc nội chiến thành cuộc thánh chiến….”

Từ nhận thức mới này, Nhà văn vạch trần sự thật: “Nếu cuộc chiến tranh kết thúc ngày 30. 4. 1975 là “Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước” thì cuộc chiến tranh đó trước hết phải giải phóng người dân miền Nam khỏi sự nô dịch của đế quốc Mĩ như hệ thống tuyên giáo cộng sản vẫn ra rả tuyên truyền, để người dân miền Nam trở về với dân tộc Việt Nam yêu thương. Đất nước thống nhất trước hết phải thống nhất trong tình cảm, ý chí người dân. 40 năm đã qua, sự thống nhất đó vẫn chưa hề có. Cuộc chiến tranh kết thúc ngày 30. 4. 1975 chỉ giải phóng đất đai miền Nam để người thắng cuộc thâu tóm, thống trị cả nước, còn người dân miền Nam vẫn bị người thắng cuộc coi là thù địch. Chỉ là cuộc nội chiến, người Việt Cộng sản làm chiến tranh để tiêu diệt người Việt Cộng hòa. Người Việt Cộng hòa có may mắn thoát chết trong cuộc nội chiến khốc liệt, tàn bạo đó cũng bị loại bỏ khỏi sinh hoạt xã hội, trở thành những người tù không án, bị giam cầm mút mùa không thời hạn trong những nhà tù hà khắc.”

Thất vọng tuyệt cùng

Nhân chứng thứ ba đã bất mãn với đảng vì bị lừa dối từ khi còn tấm bé theo Cha, một Luật sư liệt sĩ kháng chiến chống Pháp vào bưng là Bà Nghệ sĩ Kim Chi.

Tên đầy đủ của Bà là Nguyễn Thị Kim Chi sinh ngày 15 tháng 6 năm 1943, tại Rạch Giá (Kiên Giang). Bà theo gia đình tập kết ra Bắc năm 1954 và được học trở thành diễn viên điện ảnh, đạo diễn và biên kịch.

Nghệ sĩ Kim Chi đã lặn lội ở chiến trường miền Nam trong 10 năm cùng đội Văn công Giải phóng và đã đóng nhiều bộ phim chiến tranh và tình cảm nổi tiếng.

Bà cũng là người được báo chí quốc tế chú ý sau khi bà công khai vào năm 2013 từ chối nạp hồ sơ khen thưởng nghệ sĩ của Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng. Bà cho biết lý do từ chối vì, ông Nguyễn Tấn Dũng “đang làm nghèo đất nước, làm khổ nhân dân.”

Bà Kim Chi cũng đã tham gia nhiều cuộc xuống đường đòi dân chủ, tự do và ủng hộ dân oan chống cưỡng chế đất đai, đòi bồi thường công bằng. Bà luôn luôn sát cánh trong hàng ngũ trí thức và thanh niên tranh đấu cho quyền tự do báo chí, tự do tư tưởng và chống Trung Quốc xâm lược biển đảo Việt Nam.

Như vậy, khi Bà lên tiếng chỉ trích và tố cáo đảng đã lừa dối nhân dân, phản bội xướng máu của những người Việt đã hy sinh bảo vệ Tổ quốc chống quân Trung Cộng xâm lược thì hẳn nhiên không phải là chuyện bình thường.

Bà giãi bầy tâm trạng thất vọng của mình trong bài viết ngày 23/04/2015 vào dịp 40 năm ngày 30/04/1975: “Mấy năm qua, mỗi lần 30/4 tôi mất hẳn trạng thái cảm giác hạnh phúc, tự hào như những năm trước đây. Tôi buồn vì niềm tin trong tôi hoàn toàn đổ vỡ. Nghĩ lại, nhận rõ và xác thực hơn: Những năm bom đạn ‘đi theo lý tưởng’ thì quả là “lớn rồi mà như ngây thơ”. Tôi cũng như biết bao đồng đội đã ‘ngây thơ’….”

“…Đúng thế, dần dần tôi nhận ra lời tuyên bố hùng hồn của đảng CS ngày ấy nay như không hồn! Những điều nói và làm khác biệt, làm ngược với nói như thế, dân Nam bộ chúng tôi đã đúc rút: “Nói dzậy mà hổng phải dzậy”. Thực tế đời sống chính trị-xã hội đã khác hoàn toàn những điều tôi hằng tâm niệm, một sự giả dối mà họ không dễ tự nhận biết, không dễ sám hối!...”

Rồi Bà kể ra tội lỗi của đảng: “Trong cương lĩnh đảng CSVN tuyên bố “người cày có ruộng”. Vì lẽ đó nên con em nông dân đi lính đông nhất khi đất nước có chiến tranh. Ở nông thôn miền Bắc VN đóng góp quá nhiều máu xương cho những cuộc chiến. Vậy mà cho đến hôm nay có rất nhiều gia đình vẫn đói nghèo vì bị cướp đất cho những dự án. Có còn xứ sở nào nhiều dân oan như ở VN không? Hiến pháp VN không công nhận quyền tư hữu ruộng đất là cố tình để những nhóm lợi ích tước đoạt ruộng đất của nông dân….”

Đối với hành động lấn đất, chiếm biển Việt Nam của Trung Quốc, Bà gay gắt lên án: “Lãnh đạo VN sợ Trung Quốc đến nỗi cho đục bỏ cả tên tuổi của các chiến sĩ khắc trên bia đá ở biên giới. Tàn nhẫn hơn là mỗi lần anh em chúng tôi tố chức những cuộc tưởng niệm các chiến sĩ đã hi sinh ở Gạc Ma, ở Hoàng Sa, ở biên giới đều bị đám côn đồ và dư luận viên quấy phá, chửi bới tục tĩu. Mọi người đều thừa biết nếu không có đảng và công an đứng phía sau thì bố bảo bọn giặc ấy cũng không dám láo xược như thế.”

Vì vậy, đối với Nghệ sĩ người miền Nam như Kim Chi thì: “Đã 40 năm “giải phóng miền Nam” nhưng với người miền Nam thì từ “giải phóng” đầy mỉa mai. Miền Nam trước đây được biệt danh là “hòn ngọc viễn đông”. Nhưng “giải phóng” vô thì họ mất nhà cửa, tiền bạc. Rồi chồng con bị tù đầy… Mất tất cả nên hàng triệu người miền Nam buộc phải trở thành thuyền nhân. Đã hàng ngàn người chết trôi, làm mồi cho cá mập. Những kẻ chiến thắng đã cư xử với người thua cuộc tàn bạo một cách tiểu nhân. Khi nhân ra được sự tồi tệ này tôi thấy vô cùng đau đớn.”

Bà nói thẳng vào mặt lãnh đạo: “Với tôi bây giờ 30/4 không phải là giải phóng miền Nam. Miền Nam trước đây là mơ ước của Thái Lan, của Singapore. Vậy mà bây giờ VN ta tụt sau họ hằng thế kỷ. Miền Nam là vựa lúa xuất khẩu đi các nước. Vậy mà sau 30/4 một thời gian thì các nhà lãnh đạo đã khiến cho cả nước phải ăn độn khoai, sắn, ngô. Cảnh cấm chợ ngăn sông ngày ấy đã dẫn tới cảnh thiếu từng con khô, chai nước mắm…

Bây giờ mỗi lần 30/4, tâm trạng tôi rất đau đớn, vì niềm tin vào đảng CSVN và chế độ XHCN hoàn toàn đổ vỡ. Nỗi đau buồn không diễn tả được bằng lời.”

Nghệ sĩ nổi tiếng Kim Chi không ngại nhìn nhận Bà và những đồng đội người miền Nam của Bà đã “ngây thơ” nên bây giờ Bà mới đau buồn như thế.

Nhưng đâu phải chỉ có một mình Bà buồn mà nỗi buồn, nỗi oan khiên do người Cộng sản gây ra đã đổ lên đầu đại đa số trên 90 triệu dân, ngoại trừ những kẻ có chức có quyền và các nhóm lợi ích đang không ngừng tự mãn hưởng thụ trên xương máu của cả dân tộc.

Hãy nghe Đạo diễn điện ảnh Song Chi, người đã rời Việt Nam sống tị nạn chính trị ở Đan Mạch lên án: “Mỗi lần 30 tháng Tư về là một dịp để nhà cầm quyền tìm mọi cách nhắc nhở với người dân những “chiến công” lẫy lừng đánh cho Mỹ cút ngụy nhào, thống nhất đất nước của đảng cộng sản. Khi thực tế VN hôm nay về mọi mặt từ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, chất lượng sống của người dân… đều tụt hậu quá xa ngay cả so với các nước trong khu vực, chứng tỏ sự thất bại không thể bào chữa, đổ thừa bằng bất cứ lý do nào của đảng cộng sản trong 40 năm cầm quyền sau chiến tranh, thì họ càng phải bám vào “những “chiến thắng, chiến công” trong quá khứ để tiếp tục lừa dối người dân về tính chính danh, vai trỏ không thể thay thế của đảng cộng sản.”

Bà giãi bầy tâm tư trên trang báo điện tử của Đài Á Châu Tự Do (Radio Free ASIA, RFA) ngày 21/04/2015: “Ngày càng nhiều những thành phần khác trong xã hội, từ thái độ bàng quan về chính trị, không nghĩ ngợi nhiều về cái ngày 30 tháng Tư hàng năm, thậm chí vui mừng, kiêu hãnh ban đầu do được tuyên truyền, đã dần dần mất vui, cay đắng, chua xót, thậm chí ân hận.

Họ là những người đã từng tham gia vào cuộc chiến tranh đánh lại Mỹ và miền Nam ruột thịt, đã góp phần tạo dựng nên cái chế độ này. Và khi thông tin đa chiều cũng như thực tế xã hội giúp họ thức tỉnh, để nhận ra mình bi lừa, dân tộc này bị lừa, con đường đi của đất nước dưới sự cầm quyền của đảng cộng sản đã hoàn toàn sai lầm ngay từ đầu cho đến tận bây giờ, không chỉ đã gây ra những hậu quả khủng khiếp cho đất nước, dân tộc mà còn đẩy VN bị lệ thuộc nặng nề về mọi mặt vào Trung Cộng.”

Triệt hạ dân mình

Trong khi đó, Nhà văn Võ Thị Hảo, 59 tuổi (Bà sinh năm 1956 tại Diễn Châu - Nghệ An), một người trực tính, không ưa nói thẳng vào mặt chẳng sợ hãi gì, đã viết trên BBC (Tiếng Việt) ngày 28/04/2015: "Sau bốn mươi năm, lòng người vẫn ly tán. Việt Nam vẫn ngửa tay hân hoan đón dòng tiền kiều hối bất kể nó chảy về từ nguồn nào, nhưng vẫn kỳ thị và sẵn sàng trừng trị những kiều bào và công dân bất đồng chính kiến, gán cho họ hai tội "diễn biến hòa bình" và "phản động".

Cùng tiến theo mức độ tham nhũng, mức độ vi phạm tự do và nhân quyền, với nạn công an giết dân ngay tại trụ sở công quyền ngày càng tăng, là những cuộc đại lễ kỷ niệm 30/4 thêm khoa trương tốn kém.”

Rồi Bà hỏi mọi người: "Là người Việt Nam có lương tâm, lẽ nào không biết đến nước mắt và máu của đồng bào mình trên một nửa trái tim Việt đã đổ, đã chảy thành sông, đã pha đỏ ngầu nước biển trên con đường đi tị nạn của họ sau ngày 30/4/1975 để tìm tới tự do.

Làm sao có thể không xót xa, không tưởng nhớ, không thắp một nén nhang, một lời nói công tâm cho khoảng 250 ngàn đồng bào mình đã chết oan khốc trên biển? Có ai đặt mình vào hoàn cảnh của họ để thấu hiểu dù chỉ một phần ngàn những khốn khổ của họ?”

Ngày 30/4/1975 đối với người đứng đầu đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng là ngày đánh dấu của điều thêu dệt là "Thắng lợi vĩ đại của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng", nhưng Nhà văn Võ Thị Hảo đã có cái nhìn khác.

Bà nói: “"Tháng tư đe", "Ngày quốc hận", "Ngày Sài Gòn thất thủ", và mới nhất: "Ngày Hành trình tới Tự do" là tên gọi đối chọi nước lửa với cái tên "Ngày giải phóng miền Nam" của nhà cầm quyền Việt Nam luôn tự hào vỗ ngực.”

Tên gọi "Ngày Hành trình tới Tự do" được Quốc hội Canada chấp thuận lúc 19 giờ 15 ngày 22/04/2015 (giờ Ottawa) ghi trong Luật S-129, xác nhận “trong khắp đất nước Canada, trong mỗi năm, ngày thứ ba mươi của tháng tư được gọi là "Ngày hành trình đến Tự do" (Journey to Freedom Day).

Luật này thành công nhờ công lao của Nghị sĩ gốc Việt Ngô Thanh Hải có mục đích xác nhận hàng trăm ngàn người Việt Nam đã bỏ nước ra đi sau ngày quân Cộng sản vào Sài Gòn ngày 30/04/1975.

Luật S-129 cũng ghi nhận việc Chính phủ Canada đã cứu 600.000 thuyền nhân, trong số 300.000 người đang sống ở Canada. Đồng thời cũng nhằm để tưởng nhớ đến 250 ngàn người Việt Nam đã bỏ mình trên biển Đông hoặc là bị cướp, bị bão trên đường tìm tự do.

Vì vậy, Nhà văn Võ Thị Hảo mới hỏi mọi người Việt Nam: "Chúng ta đã làm gì khi hai triệu đồng bào mình, chỉ vì khác chính kiến, là cánh bèo trôi dạt của những thể chế chính trị, mà không còn đường sống, phải tất tưởi đứt ngàn khúc ruột, bỏ lại đằng sau tất cả những gì đời người chắt chiu và hang ổ ẩn náu cuối cùng phó thác mình cho sóng dữ?”

Rồi để trả lời cho luận điệu chối tội “không làm gì có tằm máu” sau ngày 30/04/1975, Bà viết: “Có thực sự không có tắm máu không? Máu của khoảng 250 ngàn người bỏ mạng trên biển, dù bị nước biển pha loãng nhưng cũng đủ nhuộm màu.

Sóng biển vỗ qua xương thịt của những thuyền nhân Việt Nam, từ đó biển ấy không bao giờ như cũ. Nước ấy pha máu xương người Việt trên con đường chạy trốn khỏi sự bạo tàn của chính quyền cộng sản Việt Nam. Chính quyền này nhân danh đấu tranh giai cấp và hệ tư tưởng để triệt hạ người dân của chính nước Việt.

Có đủ để phủ nhận không tắm máu sau 30/4/1975? Nếu tính những dòng máu của đồng bào Việt Nam đang rỉ rả chảy, kể cả những người bị chính quyền cộng sản Việt Nam bắt đi tù và bị chết trong tù bởi chế độ nhà tù tàn bạo và thiếu thốn?”

Cuối cùng Nhà văn nói dõng dạc: "Người Việt Nam sẽ tự động hòa hợp ngay sau khi Việt Nam giải thể chính quyền độc tài cộng sản và thay vào đó bằng một chính thể dân chủ đa nguyên, tôn trọng tự do và nhân quyền."

Nỗi đau nào lớn?

Người thứ 6, bất chấp hiểm nguy bị bắt lại đã cất cao tiếng nói lên án đảng CSVN đến từ nguyên Nhà báo Nguyễn Vũ Bình, 47 tuổi (ông sinh ngày 02/11/1968). Ông từng làm việc gần 10 năm cho Tạp chí Cộng sản, cơ quan lý luận chính trị của đảng CSVN.

Theo Bách khoa Toàn thư (mở) thì: “Ngày 02/9/2000, Ông làm đơn xin thành lập đảng Tự do - Dân chủ, đồng thời cũng làm đơn xin nghỉ việc tại Tạp chí Công Sản. Tháng 01/2001 Ông bị Tạp chí Cộng Sản buộc thôi việc. Sau đó, Ông cùng với 16 người khác đã viết một thư mở đến chính quyền kêu gọi cải cách chính trị và trả tự do cho các tù nhân chính trị. Ông cũng ủng hộ việc thành lập "Hội nhân dân giúp Đảng và Nhà nước chống tham nhũng" và trở thành thành viên sáng lập của Câu lạc bộ dân chủ cho Việt Nam.”

Ông bị bắt và bị “Tòa án Nhân dân thành phố Hà Nội vào ngày 31 tháng 12 năm 2003, tuyên án 7 năm tù giam và 3 năm quản thúc tại gia vì tội làm gián điệp.”

Ông kháng án nhưng “ngày 5 tháng 5 năm 2004, tòa phúc thẩm Tòa án Nhân dân Tối cao tại Hà Nội vẫn quyết định giữ nguyên bản án. Tại cuối phiên kháng án thất bại của mình, Nguyễn Vũ Bình tuyên bố: "Đối với tôi, tự do hay là chết",

“Các tổ chức quốc tế như Ký giả Không Biên giới , Quan sát Nhân quyền, Ủy ban Bảo vệ Các nhà báo, World Association of Newspapers , và Diễn đàn Biên tập viên Thế giới, đại diện 18.000 tờ báo trên 100 quốc gia và Chính phủ Hoa Kỳ đã đồng loạt lên án phiên xử.

Vào ngày 9 tháng 6 năm 2007, ông được nhà cầm quyền thả tự do từ nhà tù Ba Sao ở tỉnh Nam Hà.”

Với thất bại của chính bản thân không được nói tự do và hoạt động dân chủ như đảng tuyên truyền, ông Nguyễn Vũ Bình đã nhìn ra sự thật của điều được gọi là “giải phóng miến Nam, thống nhất đất nước” của ngày 30/04/1975 như thế này: 

“Người ta đã nói nhiều tới nỗi đau của người dân miền Nam sau biến cố 30/4/1975 này, và đó là những sự thật hiển nhiên. Một quốc gia (Việt Nam Cộng Hòa), với chính nghĩa sáng ngời, tinh thần nhân bản đã bị cưỡng chiếm một cách đau đớn, tức tưởi. Từ sự kiện này, hàng triệu quân, dân, cán, chính của Việt Nam Cộng Hòa đã phải vào các trại cải tạo, lao tù. Hàng chục vạn người đã phải bỏ nước ra đi, vượt biên vì không thể sống nổi trên quê hương. Hàng chục ngàn người đã nằm trong bụng cá và dưới đáy biển sâu… đó là số phận, là nỗi đau của bên thua cuộc.”

Ông Bình nói tiếp không ngại ngùng: “Tuy nhiên, ngoại trừ sự thất bại của cuộc chiến tranh (có nguyên nhân quan trọng từ việc đồng minh Mỹ bỏ rơi) mà người dân miền Nam ít nhiều có trách nhiệm, thì những nỗi đau khác, sự thống khổ, bi ai của người dân miền Nam là kết quả của những chính sách thâm độc, hiểm ác và tàn bạo của chế độ cộng sản.”

Như vậy, thực tế ngày nay Việt Nam sau 40 năm đảng thống trị cả nước, có tốt đẹp hơn ngàn lần hơn như giấc mơ của ông Hồ Chí Minh?

Nhà báo Nguyễn Vũ Bình trả lời: "Sau 30/4/75, đất nước sạch bóng quân thù, cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội… một sự vỡ mộng, bẽ bàng khủng khiếp từ từ xâm lấn tâm hồn bên thắng cuộc. Với độ lùi 40 năm sau ngày 30/4 đó, tất cả đã hiển hiện, bức tranh toàn cảnh của Việt Nam dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng cộng sản: Sự toàn vẹn lãnh thổ không còn, đất đai, hải đảo, lãnh hải bị mất và xâm phạm nghiêm trọng; nợ gấp đôi GDP (Gross Domestic Product, tổng sản lượng quốc gia) và không có khả năng thanh toán; đạo đức, nền tảng xã hội bị băng hoại và phá hủy hoàn toàn; sự dồn nén cùng cực của tất cả mọi tầng lớp nhân dân… đây phải chăng là kết quả của niềm vui chiến thắng?”

Trước sự thật phũ phàng như thế, ông Bình đặt nghi vấn: “Còn nỗi đau nào lớn hơn khi ngay từ những năm 14-15 tuổi làm liên lạc viên cho Việt Minh, cả cuộc đời cống hiến, lên tới chức vụ trưởng, thứ trưởng, bộ trưởng… khi đã về hưu, khi sự thật được phơi bày mới biết rằng mình đã bị lừa, những điều mình làm không hề đem lại điều tốt đẹp cho nhân dân, đất nước mà còn góp phần gây ra thảm họa cho dân tộc, cho nhân dân, cho đất nước.

Vậy thì, nỗi đau nào lớn hơn?”

Tất nhiên không có sự hành hạ thể xác nào, dù có trăm cay nghìn đắng, cũng không bằng một chiếc kim xuyên thấu tâm gan giả dối của chính bản thân người cán bộ vì đã nhân danh “giải phóng” để lường gạt Tổ quốc và đồng bào mình trong cuộc chiến huynh đệ tương tàn.

Hàng chục ngàn dân đã bỏ vùng Việt Minh kiểm soát ở miền Bắc hồi cư về thành phố trước năm 1954. Trên 1 triệu người miền Bắc đã bỏ mồ mả cha ông để di cư vào miền Nam (Việt Nam Cộng hòa sau này) sau Hiệp định Geneve chia đôi Việt Nam ngày 20/07/1954.

Và đến khi quân Cộng sản vào Sài Gòn ngày 30/04/1975 cho đến thập niên 1980, trên 2 triệu người miền Nam đã phải chạy trốn Cộng sản ra nước ngoài, dù phải đổi mạng sống để được tự do.

Trong đợt bỏ nước ra đi lần này, ít nhất cũng đã có khoảng 250.000 người Việt Nam được gọi là “thuyền nhân” bỏ mình trên biển cả, trong số họ có cả những xác Phụ nữ bị hải tặc hãm hiếp.

Vậy ai đã gây ra thảm cảnh này cho dân tộc, nếu không phải là người Cộng sản đã gây ra cuộc nội chiến và xâm lăng Việt Nam Cộng hòa dưới chiêu bài “giải phóng”?

Nhưng người Việt Nam đâu đã hết bỏ nước ra đi, tại sao?

Hãy nghe Nhà Trí thức dân chủ Vũ Cao Đàm báo động trên mạng báo Bauxite Việt Nam ngày 22/04/2015: “Trên thực tế, có lẽ các nhà lãnh đạo cũng phải suy nghĩ, vì sao dân lại cứ thích bỏ đi mãi thế. Mà dân bỏ chỉ theo một dòng muốn thoát khỏi thể chế cộng sản. Không thấy có dòng ngược lại?

Trong số những người dân bỏ nước ra đi không chỉ có quân cán chính và công dân Việt Nam Cộng hòa, mà cả những người là công dân của chế độ xã hội chủ nghĩa, không chỉ có các doanh gia, mà có cả dân thường, có cả con em các tướng tá và quan chức cao cấp của chế độ.

Chẳng lẽ dân “thoái hóa” hết rồi sao?

Chẳng lẽ các tướng tá và quan chức cao cấp của chế độ cùng con cái của họ cũng “thoái hóa” hết rồi sao?

Chẳng lẽ, trừ mấy ông bà giáo sư tiến sĩ trong Hội đồng Lý luận Trung ương, còn lại, dân Việt Nam ngu đến mức không thấy được chủ nghĩa cộng sản là “đỉnh cao trí tuệ” và “thiên đường của nhân loại” hay sao?

Câu hỏi mỉa mai của ông Vũ Cao Đàm không phải là chuyện nhỏ mà là tiếng chuông báo động số phận đảng sắp đến hồi cáo chung.

Vì vậy, muốn con dân nước Việt ở nước ngoài trở về xây dựng quê hương; muốn người dân trong nước đoàn kết cùng nhau xóa bỏ hận thù không do mình gây ra; và để bảo vệ giống nòi, giữ vững giang sơn gấm vóc khỏi hiểm họa Trung Quốc xâm lược, chỉ có giải pháp duy nhất là: Đảng phải rút cho dân hồi cư. -/-

(30/04/2015)





Voi vuông 6 chân - Nghệ thuật tạo hình đỉnh cao siêu thực của bộ chính trị CSVN

Voi vuông 6 chân - Nghệ thuật tạo hình đỉnh cao siêu thực của bộ chính trị CSVN


Voi vuông 6 chân, 4 bánh - một tác phẩm nghệ thuật tạo hình đỉnh cao siêu thực của bộ chính trị đảng cộng sản Việt Nam.

Trên thực tế, do bị dư luận cười chê, quái vật voi vuông 6 chân, 4 bánh đột nhiên biến mất trong biểu 'diễu binh' sáng ngày 30/4/2015. Hoạt cảnh Hai Bà Trưng 'cưỡi' voi vuông đã phải chuyển sang cảnh đi bộ và múa kiếm trong điệu nhạc tuồng chèo.



Diễn văn ăn mừng 30/4: Nguyễn Tấn Dũng chửi Mỹ, cảm ơn Trung Cộng

Ảnh: AP
CTV Danlambao - Đánh dấu 40 năm ngày CS cưỡng chiếm miền Nam, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vừa có bài diễn văn quan trọng bày tỏ sự cảm ơn đối với Trung Cộng và Liên Xô, những đồng thời vẫn tiếp tục mạnh miệng chửi bới 'đế quốc Mỹ'.

Những tuyên bố trên được đưa ra tại một buổi lễ ăn mừng lớn của đảng CSVN tại Sài Gòn vào sáng ngày 30/4/2015. Trong bài diễn văn được truyền hình trực tiếp trên cả nước, ông Dũng nói:

"Tại buổi lễ trọng thể này, một lần nữa chúng ta chân thành cảm ơn các nước XHCN, nhất là Liên Xô, Trung Quốc".

Người đứng đầu nhà nước Việt Nam cũng không quên tố cáo những 'tội ác dã man' của 'đế quốc Mỹ' trong cuộc chiến tranh kéo dài 21 năm tại miền Nam. Đây cũng chính là cuộc chiến mà ông Dũng tham gia rất sớm (từ năm 12 tuổi) và giữ vai trò là một y tá quân y.

"Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, đàn áp tàn bạo Cách mạng miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc. Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát đối với đồng bào ta, đất nước ta", ông Dũng phát biểu.

Dù mạnh miệng chửi bới 'đế quốc Mỹ', nhưng thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hiện đang là sui gia với một cựu viên chức dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà. Con rể ông Dũng cũng là một người mang quốc tịch Mỹ.

Hàng loạt quan chức chóp bu CS tham gia buổi diễu binh ăn mừng chiến thắng. Ảnh: AP

Thông thường, người phát biểu trong những buổi lễ ăn mừng lớn như dịp 30/4 sẽ phải là tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, người dự kiến sẽ có chuyến công du Mỹ vào tháng 5 sắp tới.

Do đó, việc để thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng công khai công kích Mỹ sẽ hạn chế những bất lợi đối với ông Trọng trong chuyến đi cầu cạnh nước cựu thù.

Trên thực tế, CSVN đang rất cần Hoa Kỳ hỗ trợ để làm đối trọng trước sự xâm lược ngày một gia tăng của Trung Cộng tại Biển Đông. Tóm lại, dù mạnh miệng chửi bới Mỹ, nhưng CSVN rất cần Mỹ.

Cũng trong bài diễn văn ăn mừng chiến thắng, người đứng đầu nhà nước cộng sản cũng trình bày chủ trương 'khép lại quá khứ, hướng tới tương lai'. Dẫn lại di chúc Hồ Chí Minh, ông Dũng kêu gọi "không phân biệt quá khứ, vượt lên trên những khác biệt, cùng nhau chân thành hòa hợp dân tộc, vun đắp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân".

Trong vai trò thủ tướng, ông Nguyễn Tấn Dũng đã dùng quyền lực để âm mưu xoá bỏ nghĩa trang quân đội Biên Hoà - nơi an nghỉ của những người lính Việt Nam Cộng Hoà. Cũng chính ông Nguyễn Tấn Dũng đã gửi thư cho thủ tướng Canada bày tỏ sự 'bức xúc' về đạo luật 'Ngày Hành Trình đến Tự Do'.

Đối với nhiều người dân Việt Nam, ngày 30/4/1975 là một biến cố đau thương của dân tộc. Tuy nhiên, đảng CSVN vẫn tiếp tục khắc sâu thêm nỗi đau này bởi những màn ăn mừng rầm rộ của kẻ chiến thắng.

Những lời kêu gọi 'hoà hợp, hoà giải' như trên cũng chẳng còn lừa được ai.

Cảnh lố lăng trong buổi diễu binh ăn mừng chiến thắng của đảng cộng sản. Ảnh: AP Photo/Na Son Nguyen


CTV Danlambao
danlambaovn.blogspot.com



An Excerpt From The Escapes And My Journey To Freedom

Du Hứa (Danlambao) - The feeling has been the same, maybe even worse, for this lonesome sailor. The spring just passed and I really missed my Tet in my Motherland. The meaning of country means so much to me more than ever. The two words “Viet Nam” are always deep in my soul. I was living in the new Motherland and serving her but I kept thinking about my people.

When May arrived, it was time for us to make the long deployment again. I was all ready for the six-month Mediterranean cruise. If somebody had asked me where I would want my ship to go for this coming long deployment, I would say that I wished my ship would conduct its exercises on the Pacific Ocean. 

My reason was that the Vietnamese boat people were still escaping their country at this time and these desperate boat people would need their lives to be rescued in the southeast of the Pacific Ocean. If our battle group was conducting the exercises in that part of the ocean, I might get the chance to see the desperate and helpless Vietnamese boat people rescued; and seeing my own people, who had risked their lives seeking freedom—taking part in saving them from their tiny watercrafts—would be indescribably amazing experience.

We arrived at the aircraft carrier in the second week of May, and the ship was underway the next day. This was an emotional day for most of the sailors because they were going to leave behind their families and love ones for at least half of the calendar year. Before the ship left port, sailors, in formal white uniforms, stood at-ease all around the flight deck saying good-bye to families, friends and the land of our beloved country.

As the ship started moving, the song “God Bless America” played on the loudspeakers. It was a very touching moment for everyone, and I couldn’t hold the tears in my eyes, although I had no family members on the port for me to say good-bye.

The ship had been out to sea for a day, and the ship crew started to welcome all of our heroic pilots from all the squadrons landed on the carrier. Seeing those beautiful and mighty birds maneuver and put their tail hooks down to catch the steel wires for landing was awesome. I kept looking up, just to wonder where the birds of my squadron were. After looking for a while, I thought I saw them. They were flying in a formation just as they were demonstrating an air show. They looked so beautiful, and I loved them.

I believed that all the pilots and all the jets had arrived on the ship. Everything had been flawlessly executed. I was confident that we were going to have a great cruise.

But bad news were already here. I was at my shop when I heard from the loudspeakers that the ship’s captain announced a serious fire had broken out in the engine room and claimed two lives. I was shocked. Silence fell over the shop. I felt very sorry for those sailors who had ultimately sacrificed their lives in the service for their country. I bowed my head and paid them the utmost respect, praying for their souls to be in Heaven with God. I couldn’t believe it was only our third day at sea and an accident like this had happened. I prayed for the safety of our cruise every day until the end of this deployment.

Coincidently with the tragedies of our ship, I saw the Navy Times magazine lying on the desk in our shop. I picked up and read the issue. There, I found another tragic event; a battleship in Iowa had exploded, and forty-seven sailors had lost their lives. Among them was a Vietnamese born petty officer third class, Fire Controlman Tung Thanh Adams.

Oh my God! So many sailors died! I cried out loudly from my soul. I couldn’t believe I’d received two tragic pieces of news in the same day. I wanted to give my deepest sympathy from the bottom of my heart to Tung’s adoptive father, Alvin Adams, and to the families of all the other sailors who had sacrificed their lives.

I was already starting to feel the heat of the flight operations. We worked very hard to keep our jets in the air. This was nothing new, as this was how we’d worked during the NATO cruise. Whenever I had breaks, I chose a very good spot on the balcony so I could look far beyond the horizon. Many times I saw our battle group ships surrounding our aircraft carrier. They all looked so great and mighty. I called this the American super power; it was so great to see such strength of the United States Navy.

We had been at sea for a few weeks now, and our first port visit was scheduled. In fact, we would have port visits back to back for the next four weeks. Our first port would be Benidorm, one of Spain’s beautiful coastal cities. We would have six days of liberty here; a lot of time to explore this gorgeous city.

The water and beaches in Benidorm were great and the people seemed very nice and friendly. I also loved the food. It was different from what we had in our chow hall.

Several days after Benidorm, we visited a beautiful island in Spain called Palma. This huge island sat in the middle of the Balearic Sea. Once again, we got to see new, beautiful places. Glorious architecture made this city spectacular—too much to see it all. Besides sightseeing, my next favorite thing to do was to enjoy Spanish food. I ate too much. 

After several days in Palma, our ship pulled out and headed east to the Mediterranean Sea. The flight operations resumed, and we got into to our serious business. One day, I noticed that the flight operation had stopped and our carrier had slowed down; I saw a cargo ship approaching our ship. I realized that it was time for the ship to replenish the ship’s supply. I was amazed of how well the operation was carried out.

Some days, there was not much activity and the work forces had been at ease somewhat, especially the stress and pressure from those pilots who had the most responsibilities. I always respected and admired them and thanked them for their intelligence, dedication and their remarkable service to their country. Every now and then, we had short working days, and I saw our pilots walking around and relaxing. Many of them walked on the flight deck catching fresh air and probably thinking about their families and loved ones, whom they had been far apart far apart from for a while now. We all had personal moments, and I wished peace would always be with us all.

We would be making another port visit in a few days. This time we would be visiting Izmir, Turkey. I had never thought that I would see Turkey. I never knew how many adventures I was going to have when I was in the Navy. Seeing the people and the country of Turkey, where the East met the West would be so interesting.

When the ship arrived at the port of Izmir, I was eager to get off the ship. There was so much history here and so many historic places that I longed to see. I also saw statues and broken buildings of precious stones that had been built many centuries ago. The Mother of Virgin Mary’s house was also believed to be in this area. It was a lot to learn from this country.

Liberty time was over, and our ship pulled out to sea. I noticed that no flight operation in the next a few days because we were heading to the Suez Canal. This was interesting news. I remembered that, when I was only in fifth grade in a school in my village in Vietnam, I had first learned about the Suez Canal during world history class. Today I was going see the canal for myself. This was really unbelievable. I would never have expected this in a million years.

The Suez Canal, located in Egypt, is over a hundred miles long. It connects the Mediterranean Sea with the Gulf of Suez. The Suez Canal was completed and opened in 1869. The construction of the canal took ten years. It had become the most popular man-made canal in the world. As the ship slipped through the narrow vein of water, I could see the sands that stretched to the horizon. I saw the Egyptians, who were standing close by the canal, waving at us. In the meantime, on the flight deck, our crewmembers took this rare opportunity to convert the flight deck into a big gym. Sailors started to run, walk, or lift weights. It was definitely an interesting and fun event for me.

Yesterday, we had been in the Mediterranean Sea, and today, we were in the Arabian Sea. After a day of Suez Canal transit, we were now conducting exercises with the Saudi Arabian forces. The flight operations resumed, and we were getting busy. However, my squadron had temporarily assigned me a special duty when some departments of the ship didn’t have enough personnel. I was sent to office of the master-at-arms to be a part of the team charged with keeping peace and order inside our ship. This would be totally a different task. My job was to patrol a certain section of the ship and get involved in, solve, and report any violence or disorderly conduct of any sailor to a higher authority. I took the new order as a new challenge for me.

Things were going smoothly so far. The month of July was almost here, and the birthday of the United States of America was coming. This would be my first time celebrating the biggest national holiday on the ship that carried the country’s name. We were going to glorify the birthday of America two days shy of the actual date because of the busy operation schedules.

On the morning of July 2, 1989, one of my favorite songs, “America the Beautiful” poured from the loudspeakers I stood on the balcony in the middle of the high sea under a beautiful sky and listened to every word of the song and every note of the music:

O Beautiful for spacious skies…
America, America, God shed his grace on thee.
And crown thy good with brotherhood from sea to shining sea.”

America, America—it was my home—the home of the free.

The noise started to get louder and the flight deck had soon transformed into a huge outdoor picnic. We called this Steel Beach BBQ. My friends and I stood in line for hot, juicy real American hamburgers and hot dogs.

Sharing America’s Birthday cake.

At the end of the day, our celebration of the birthday of the nation came to an end; glorifying the holiday like this had boosted the morale and spirit of our sailors. I loved this country more than ever. I was very thankful to live in freedom and democracy. Nothing was more precious than that.

I patrolled the ship as it was underway for flight operations. I worked a shorter hour schedule at the master-at-arms office, so I had more time to go to the gym. I was in better shape than before. Through a combination of good food and exercise, I had gained some muscle mass, and I felt stronger and healthier. I was very happy and proud of myself.

One early morning, I heard a lot of noise, and my shipmates were running up to the flight deck. I got out of my rack and asked my teammate what were going on. He told me it was the Cross the Line initiation. I had no idea what that was or why someone had to go through that. Nobody had the chance to explain, but one of my teammates told me that if I didn’t want to go, I should just stay in my rack.

I certainly didn’t want to stay in my rack because my ego and curiosity were bigger than that. I followed the others up to the deck; I wanted to be part of it even though I had no clue what was happening and why. When I approached the flight deck, people started calling me pollywog, and they called themselves the trusty shellback or the sons of Neptune. They made me crawl on the flight deck to the places of the initiation. Messy food and nasty liquids in different kinds were everywhere. All forms of making fun of the Pollywogs who were the first time crossed the line. I realized that this was just another Navy tradition—whenever the ship was crossing the equator, a ceremony was held to initiate new sailors and make them tougher and fully, 100 percent sailor proof. Seeing my fellow sailors in weird costumes and makeup was very funny. All the shellbacks were having too much fun to make the pollywogs suffer. It was very tough, and that was the name of the game. This was my second initiation, so I was fully aware what I needed to do to become tougher and get through this. My group and I finally got the declaration from the king of Neptune. “I do hereby command all hands to honor and respect him as a trusty shellback.” I did it, and I was tough.

Things were getting back to normal quickly. I had now completed my temporary duty as a master-at-arms, and returned to my squadron. I was glad because I had been missing the works on my airplanes.

The ship was now in the Indian Ocean and conducting heavy flight operations. Whenever I could, I went to the newsroom to check out some Navy magazines, so that I could keep up with what was going on in the Navy. Indeed, I caught some interesting news that made me really excited. An article in All Hands Magazines reported that the USS Oldendorf had rescued thirty-five Vietnamese boat people from their tiny vessel in the Gulf of Thailand. Involved in the rescue was a Vietnamese sailor, Khoi Thanh Nguyen, who was stationed on Oldendorf. Khoi, who was once a refugee and had been rescued by the US Navy in 1975 after the Fall of Saigon. Khoi was able to immediately connect with the refugees and help them in the rescue process. I felt great and so happy that God had blessed the people who had just been saved. I wished I could have the same opportunity like Khoi. That would be the greatest feeling; but my ship was now in the Indian Ocean; there was no way any refugee boat would be drifting this way.

After reading that article, images of desperate, helpless faces of the boat people I had known – had been one of – played often in my mind. I remembered my own rescue and thanked God again for our angel, the Cap Anamur. I knew that those people had truly been willing to make the ultimate sacrifice for freedom and dignity.

Our ship was moved at a steady pace, and the flight operations got heavier in the Indian Ocean. My teammates and I were busy maintaining our airplanes. We sometimes cracked jokes and made fun of each other just to make our work more pleasurable.

One day, a teammate told me that he couldn’t wait for the Singapore port visit. I was stunned. I asked him to repeat himself. “Are you sure we are going to Singapore?”

He said yes, noting that he’d seen the new schedule. I immediately ran to the shop and asked my supervisor, just to confirm that it was true. It was true, indeed. Our ship was going to hit Singapore port in just a few more days. I was extremely happy and excited, not because I wanted to see Singapore but because I thought our ship might have the chance to rescue the Vietnamese boat people in the South China Sea in the Pacific Ocean—the waters near Singapore, Malaysia, Thailand, and the Philippines.

I started counting the days until our ship would head to Singapore. I also wanted to know when our ship would be in the Pacific Ocean. By looking at the schedule, I figured that, in one more day, my ship would be out of the Indian Ocean and in the Pacific Ocean.

I continued to read a lot of news in the Navy magazines. I kept searching for news of any more boat people being rescued. Surprisingly, I read another good bit of news about the refugees. This news came from the Transitions Navy Magazine under Refugees Rescued at Sea. A frigate, the USS Kirk (FF-1087) had spotted a refugee boat with nine people on board in the South China Sea. The boat people were surprised when, from the Navy ship, someone spoke down to them in their native language. Wow! How could that be? They were astonished to learn that, on the frigate Kirk, there was a former Vietnamese refugee just turned US sailor several months earlier. Fireman Apprentice Long T. Huynh had escaped from Vietnam nine years earlier and, interestingly, had been rescued by the US Navy. After graduating from high school in San Diego, Long had joined US Navy and been stationed on the frigate Kirk. How cool was that!

I was very happy for those nine boat people. Their lives had been saved, and now they had their freedom in their hands. I was also very happy for Long who had had the opportunity to save his own people. I wanted to congratulate him. From my own aircraft carrier, I prayed that God would give me the same opportunity to save my own poor people.

My teammate and I went up to the flight deck to work on a minor problem on one of our Hornets. Walking on the flight deck during operations was extremely dangerous. I had to walk around the A-6s (attack jets) that already had their engines running. I passed in front of their intakes, and even though I wasn’t too close, I felt the power as the intakes sucked in air, pulled by the powerful force, I almost lost my balance. A shipmate who was nearby reached out his hand and pulled me back. He may have saved me from being swallowed into the intake of the A-6. If that had happened, my entire body would have become burger meat. I thanked him for watching out for his shipmate, and I promised him I would be extremely careful around the areas.

While we were fixing the minor problem on the Hornet, I watched the other Hornets being launched. There was nothing cooler than to see the catapult shooting the jet into the air.

One next day I arose very early the next morning. I didn’t know how far we were from Singapore, but I knew for sure that we were in the Pacific Ocean now. I put on my working uniform and walked toward my shop. First, I stood on a balcony and looked down to the water. I wondered if today would be the day I might see a refugee boat.

I couldn’t stand on the balcony for long. I needed to go to my shop before I was late for work. When I arrived at the shop, I started working just like any other normal working day. However, Every couple of hours, I took a break and went to the balcony to look down at the water below me and far beyond. I prayed to God - if any refugee boats were in the area, please let us rescue them before they die.

I then thought of my girlfriend. She had told me that she was going to escape, but I had never heard anything from her. Could today be the day I might see? Could hers be the boat we rescued? I shook my head. It was impossible.

Even so, I still wanted to see that dream to come true. Oh my God! How wonderful that would be. I still missed her. I still thought of our time together and I remembered every time we dated. The love I gave to her was natural, and my love for my first love came from deep within me. I opened my wallet and took out the little picture of her face that she gave to me at a time when we were deeply in love. I had it with me at all time lately. I asked myself whether there was any chance that my ship would rescue her boat on our way to Singapore. Once again, I shook my head and pushed all of those feelings away. I didn’t want to raise hope in myself and feel the disappointment and pain in my heart and soul if that didn’t happen. I needed to stop thinking and get back to my shop.

I looked down to the water several times throughout the day. I still saw nothing but dark blue ocean. I figured I was setting myself up for disappointment, but I didn’t give up yet. Our ship would still be in this part of the ocean for several days. 

It was a long day at work, and my energy ran completely out. I was exhausted. I needed to hit my rack badly

After taking a shower, I crawled onto my bed and lay down with my comfortable pillow. My body and mind were out before I even realized it. But, somehow, I thought I saw a very bad storm with very dark clouds coming. The face of the ocean turned violent, and one big wave came after another. Through the frightening scene, I spotted a tiny refugee vessel crowded with children. Oh my God! I screamed out to the captain of our ship, begging him to rescue the people before the boat capsized.

Suddenly, among the refugees in the boat, I saw my girlfriend. She stood up, called my name, and extended her hand out, asking for my help.

“Please wait,” I called. “I’m coming to rescue you.”

Then from out of nowhere, a huge wave came and slammed over her boat, creating a terrifying noise.

I sat up quickly, hitting my head very hard against the rack above in the tight space. My shipmate explained that he’d knocked on my rack loudly to wake me up because he’d heard me mumbling so much in my sleep. He checked on me and wondered if I was okay.

My eyes now were opened, but I was breathing very heavily. After a few minutes, I felt okay. I told my shipmate I was all right; it was just a very bad dream. I thanked him for checking on me and wished him a good night of sleep.

Back at work the next day, the horrible dream remained with me vividly. I wanted to share my dream with my teammates, but on second thought, I didn’t. I was afraid they might make fun of me. I decided to keep it to myself. I tried to focus on my work normally. However, I continued to run back and forth to the balcony to look down at the water. The ship now was very close to Singapore. Tomorrow we were going to hit the port of this beautiful city; but my mind was not on the liberty call at this time.

We arrived in Singapore. I saw so many ships floating on this huge area of the blue water making a beautiful scene. Our ship was anchored in the middle of the water and we had to take a ferryboat to go to shore.

Singapore was a beautiful and interesting port, and my friends couldn’t stop talking about this port visit. They all were looking forward to have the best time in this sensational city. 

Although my mind wasn’t ready for this liberty call, I got to see this Lion City. I had never been here before, but a lot of Vietnamese boat people had escaped to this country and stayed here for a while before settling in their third country. I wanted to go and see the Vietnamese refugee camp that I knew was somewhere in this country. I asked some of the local people, and no one knew where it was.

Singapore was a very clean and beautiful city. I went to a huge outdoor market. Everything looked similar to the market in Saigon. I bought a lot of tropical fruits because these fruits were the same fruits in Vietnam and I certainly missed eating them.. It was time for me to enjoy these fruits. I asked my friends to share with me and they also loved them.

Suddenly, our ship had an order to pull out early due to an emergency situation arising from the Desert Storm Operation of the Persian War. The captain had cancelled the remaining days of the liberty calls and ordered all hands back to their stations. I had intended to make a better effort and find the Vietnamese refugee center, but since we pulled out early, I had to miss my chance. It was okay; when I heard of the emergency situation, I thought of my ship, and my country came first. I was happy to return to my ship.

My ship started heading out of the Pacific Ocean. I still watched the water, searching and scouting for any refugees boats, but I saw nothing. It was time to move on, and I wanted to get my mind settled so I could focus on my important work in my shop. Our ship was rushing to the Persian Gulf areas for a great cause.

The flight operations were so heavy that we were working very long days and nights. We were in this area for a few weeks and working intensively.

During one lunch break, I was reading a Navy Times magazine. I saw more good news for the Vietnamese refugees. The USS Dubuque had just rescued thirty boat people on a very small watercraft. The ship’s captain had decided to launch the rescue because he realized that the refugees’ vessel was not seaworthy and overloaded with a lot of refugees on board. The tiny watercraft was spotted four hundred nautical miles from Singapore on August 13. Wow! My ship had been in the area about ten days ago. I told myself that I might have seen that refugee boat.

After several intense weeks of flight operations in the Persian Gulf, we headed back to the Gulf of Suez, transiting through the Suez Canal to the Mediterranean Sea. We would soon make another port visit, this one in Toulon, France. I was sure that everyone needed a break this time.

We arrived in Toulon during the second week of September. We would spend five days here for liberty calls. Toulon was another beautiful city, with gorgeous long beaches. I had a chance to catch a bus to another beautiful nearby city, Nice. What stunning views I found there; I had never seen the beach like this before. There was no sand, but the beach was covered with pretty stones or gravel. I was glad I had my camera with me.

The very nice break came to an end, and we got back to the waters and resumed our operations. Thus far, we had been deployed for about four months. The routines had become very familiar, but most of the sailors were missing their loved ones very much. One of my teammates told me that he couldn’t wait to return home to see his girlfriend. I told him that I very much understood his situation and asked him to just hang in there; we were coming to the last part of the cruise, and we would be home before we knew it.

He asked me if I had a girlfriend, and I told him that I didn’t but that I had been looking for one all over the Pacific Ocean when our ship had been approaching Singapore. He didn’t seem to understand, so I had to tell him a little more about what had happened to me and to my first love. I even told him that I still loved her and dreamed about her. I also told him about the nightmare I’d had. He was the one who had checked on me that night.

His eyes grew wide as I quickly summarized my love story. “Wow!” he replied. He told me he couldn’t believe how much I had gone through.

After the conversation, we understood each other a little more. We shook hands, and I thanked him for listening. Then we got back to work.

I kept collecting and reading news from the Navy magazines. In The Airwinger Navy News, I read about a guided missile cruiser, the USS Vincennes, which had just rescued twenty-six boat people in the South China Sea last week. I couldn’t believe that this tiny vessel had been floating in the high seas for fifteen days with barely any food or water during the last days of drifting and nobody had died. This was unbelievable news for the Vietnamese refugee community. 

After many long years since the Fall of Saigon, the people of South Vietnam were still fleeing from the Communist regime in search of freedom and democracy. These stories were proof that the dictatorship and brutality were far beyond what the innocent people of Vietnam should or would endure. So many people were willing to die if they could not live free. These boat people knew their simple watercrafts were not seaworthy, but they took the huge risk. Tragically, only a fraction of these people made it to freedom.

October was here, and the end of our six-month cruise was nearing. But we continued to work tirelessly. My favorite thing to do on the aircraft carrier whenever I had a break was to enjoy the excitement of the launchings and landings of the fighter jets. I hoped that, some day, I would be the one sitting in the cockpit and flying one of these powerful jets. That was still my dream, and even though I knew making it come true would be a very long road, I hoped I could continue to keep my dream alive.

We would be hitting another French port, Monaco, in a few days. We arrived at the port on a beautiful, sunny morning. This famous French city had one of the most attractive coastlines, along with imperial architecture—magnificent buildings, museums, and hotels. Things were very pricey here, so every sailor’s wallet would be empty by the time we left, especially we were going to stay here for several days.

After having plenty of fun and rest for several days in Monaco, we would pull out to sea again. Surprisingly, we would be revisiting Palma, Spain, the very next day. In my understanding, this second stop was, in part, to replenish the ship’s supplies. After relaxing for a few more days, we pulled out to sea and headed westward.

We were soon moving back to sea, and I believed we had done all the port visits for the deployment. November was just around the corner, and the day to go home was near. We didn’t have a lot of flight operations anymore, but every now and then, I saw a few. We took it easy, biding our time until we came back home. Many of the sailors couldn’t wait to see their families and friends. I knew they were counting down the days. I could see so much happiness coming to all of the sailors and their families at the end of the cruise. I was very happy for them; their families and loved ones would be together again, and I wished that they would all enjoy every single moment of the homecoming and the reunions with their families.

When we were almost home - only half a day away from Norfolk homeport. All of our airplanes had flown off the ship and the atmosphere was totally different now. Everyone was anxiously waiting to come home. Music played over the loudspeakers. One of the songs I liked most was “Coming to America” by Neil Diamond. That’s right. It’s time to come to America, the country I loved and adored.

I could see the city of Norfolk on the horizon. It was the second week of November. The sailors who were stationed on the ship were standing all around the flight deck in formal blue uniforms. They looked awesome. I wished I could stand there with them and look down at the spectators at the port- showing a great feeling of pride for a job well done. The ship was very close to the port now, and it was moving very slowly. I could see the huge crowd. I even saw a huge welcome home sign from a distance. I couldn’t imagine how much love and support the sailors had from their families and friends. It would be so wonderful to see loved ones waiting on the port when the ship returned after such a long deployment.

As we walked off the ship, the crowd grew even larger. All the people surrounding me were kissing, hugging, laughing, crying, talking, smiling, and yelling. In this crowd, I could see the greatest happiness that I had ever seen in my life. I was truly happy for my shipmates. By not expecting anyone, I carried my heavy sea-bag and walked myself to the bus.

I got onto the bus along with a few of my teammates. The bus would be here for a while before taking off to the airport. As I sat on the bus and watched the crowd, I wished my family, especially my parents, were here. Anytime there was an event like this, I missed my parents deeply in my heart and soul. I hadn’t heard anything from them lately. I wondered how they were doing. They were getting older every day, and my soul cried when I thought about not having seen them for so many years.





Những cánh hoa xuân tuyệt vời

Nguyên Thạch (Danlambao) - 30 - 4 Không quên Bùi Thị Minh Hằng đang tuyệt thực và kiệt sức trong lao tù cộng sản. Tạ Phong Tần vẫn kiên cường chiến đấu trong ngục tối.
 
Tôi muốn viết về những cây hoa lạ
Trổ nhánh đơm bông trên vùng đất khô cằn
Trên một Quê Hương khó khăn nối tiếp vạn khó khăn
Nhưng những cánh hoa vẫn căng đầy hương sắc.

Hoa vẫn cố nở dẫu dưới gót giầy bọn giặc
Vẫn vươn lên dẫu dường tắt ngõ cùng
Dẫu nắng thiêu, dẫu nghiệt ngả, dẫu tàn hung
Hoa vẫn đượm và hòa cùng đất nước.

Hoa vẫn tươi thắm cho đời, dẫu cuộc đời xuôi ngược 
Vẫn ươm niềm mơ... mai đất nước ngàn xanh
Hoa vẫn kết trên vai các chiến sĩ theo nhịp bước quân hành
Lời cương quyết trên con đường đấu tranh cho dân tộc

Hoa xoa dịu những đau thương tang tóc...
Tỏa thanh tao, nét ngà ngọc anh thư
Hoa tạo niềm tin cho cuộc sống, đem hy vọng cho đời
Xây nền nhân bản khắp nơi tình đậm.

Trong nghiệt ngả, hoa vẫn tỏa màu sắc thắm
Trong trầm luân vẫn tô đậm tình người 
Trong nhọc nhằn gian khó, hoa vẫn nụ tươi
Cao cả quá, những con người huyền dịu.

Tạ Phong Tần, Phạm Thanh Nghiên, Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, Trịnh Kim Tiến, Nguyễn Phương Uyên, Huỳnh Thục Vy, Bùi Thị Minh Hằng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Hồ Thị Bích Khương... những anh thư trung hiếu.





Giải Phóng là gì hở Mẹ?


(Phỏng theo ca khúc: Quê Hương – Đỗ Trung Quân)

Giải Phóng là gì hở mẹ
Mà Ti Vi nhắc tới nhiều
Giải Phóng là gì hở mẹ
Mà nhà nước nói phải yêu


Giải phóng là cơn ác mộng
Cho ta thấy giữa ban ngày
Giải phóng là anh Việt Cộng
Ngỡ ngàng như tỉnh cơn say

Giải phóng- Sài Gòn hoa lệ
Ngậm ngùi tan tác chia ly
Nhói trong tim, bong tàu lạ
Viễn khách hành - lệ ướt mi

Giải phóng, Ba về nức nở:
Nước nhà, lực bất tòng tâm
Mẹ mang cờ vàng sọc đỏ
Run run xếp lại âm thầm
Giải phóng là khăn tang nhỏ
Đỏ màu máu phượng trên cây
Phất phơ hững hờ trên cổ
Theo con đến lớp mỗi ngày

Giải phóng… qua từng hơi thở
Não nùng thơ dại bay bay
Ai thay sử xanh sách vở
Ngậm ngùi mắt lệ hôm nay?

30/4/15





Chuyện khiếu kiện kéo dài 27 năm của Dân Oan Lê Thị Kim Thu: Chuyện dài “Tân Cường Hào Ác Bá”

Lê Thị Kim Thu - Video về bà Võ Thị Chí Liên, vợ ông Nguyễn Hoàng Tấn, (người chiếm đất của tôi), xem trời bằng nắp vung, chửi bới đe dọa giết cả gia đình tôi và tuyên bố: “Nhà mày ở đây, nhưng xác mày ở Hà Nội, tao hứa trước sau gì tao cũng giết mày”; cũng như chỉ vào ông cán bộ Hiền nói rằng: “Từ nay sắp tới thằng nào đến nhà tao, tao chặt chân từng thằng”; chửi thêm huyện xã không là cái đinh gì; và hơn nữa y thị còn chửi chính quyền làm cái L*** gì tao !?

Ai Ăn Cướp Đất Ai???


Chửi tôi đồ ăn cướp đất, phản động, bán nước, ăn cướp cho giặc, là sự chụp mũ, vu khống, và cố tình đẩy tôi vào cuộc chiến mà các bẫy đã giăng để cuối cùng tôi là “người thua cuộc”. 

Nguồn gốc đất này, do Nguyễn Thiệu đi Vùng Kinh Tế Mới năm 1975 khai phá. Năm 1978 ông Thiệu bán lại cho bà Phạm Thị Chuột sử dụng làm rẫy. Năm 1983, phóng đường từ ngã ba Trị An (Hố Nai), vào đường 767 thị trấn Vĩnh An, đất bà Chuột được đền bù theo chính sách nhà nước quy định. Sau khi phóng đường xong. Đầu năm 1984 khu vực đất này được cấp cho nhiều cơ quan: Hạt Kiểm Lâm, bến xe Trị An..., vì nhiều đá lớn không ủi nổi, nên bỏ hoang. Sau đó, cơ quan Ban Đại Diện Công Trình Thủy Điện Trị An của tỉnh, xin khu vực này khoảng 6.000m2, cấp cho 3 nhân viên trong cơ quan không có nhà ở là anh Phạm Thanh Bình (lái xe), kế anh Trần Xuân Phỉ (bí thư chi đoàn), và tôi (nhân viên văn phòng) mỗi người 2.000m2, liền kề. Trường hợp anh Phỉ vừa nhận đất, thì có QĐ UB tỉnh chuyển về Xuân Lộc nhận công tác, phần đất này giao lại cho UB xã Cây Gáo, rồi xã cấp lại cho ông Lương Văn Nhân, bộ đội hưu trí. 

Lúc này, g/đ tôi còn ở nhờ vào cơ quan BĐD CTTĐTA vì đất ở khu phố 3, đi Vùng Kinh Tế Mới, khai phá khoảng 20.000m2 ở cầu Cứng, bị giải tỏa làm công trình thủy điện Trị An. Chính quyền lấy đất, không có QĐ thu hồi đất, không đền bù, không tái định cư, không hoán đổi đất khác để g/đ tôi sinh sống, nên cả g/đ không có nhà ở, phải ăn nhờ, ở đậu, trôi nổi ở địa phương, trong khi đó chính quyền dùng đất đã cướp phân chia cho cán bộ vừa ở vừa bán. Đó là sự việc chính mà tôi phải bỏ cả tuổi xuân, xuôi ngược Bắc Nam đi tranh đấu đòi công lý. 

Còn phần đất mới này do BĐD CTTĐTA cấp cho nhân viên, không dính líu gì trong việc đền bù thưa kiện đất đai bị chiếm ở cầu Cứng. Được cấp đất ai cũng yên ổn, điển hình ông Bình đất vừa ở và bán, ông Nhân hiện vẫn đang sống gần nhà, duy chỉ có mình gđ tôi bị dính vào việc tranh chấp. Thiết nghĩ, sau này chính quyền lợi dụng vụ này để làm cái tròng, buộc tôi vào “mê hồn trận” để tôi không còn thời gian hơi sức, tiếp tục thưa kiện mảnh đất lớn ở cầu Cứng (ba mặt tiền đường), tờ bản đồ số 33. Nếu thua, gđ không có một tấc đất cắm dùi, phải rời bỏ địa phương ra đi, nếu quay trở về đòi đất thì chính quyền sẽ vịn lý do bỏ đất hoang hóa, và giao cho người khác sử dụng là hợp lý! Họ hành hạ gđ tôi đủ điều cả mấy chục năm nay, kể cả bỏ tù nhưng tôi không chùng bước. Càng ở tù, càng khoét sâu hận thù, tôi càng quyết liệt. Và bây giờ đến giai đoạn cuối là phải giết tôi để xóa sạch mọi chứng tích như nhiều lời hăm dọa trong quá khứ và hiện tại.

Trở lại mảnh đất được cấp (không phải được đền bù trong việc cướp khoảng 20.000m2 đất ở cầu Cứng), gđ tôi đã vất vả cất nhà ở từ ngày 3 tháng 9, năm 1984. Đất này hoang sơ, nằm trên mỏ đá, cất nhà lên sập xuống, phải cại bỏ bằng tay từng viên đá lớn mới đào được lỗ chôn cột nhà được. Đất đã bỏ hoang mà BĐD CTTĐTA không biết của ai, nên khi cấp có điều kiện là nếu có ai ra nhận đất thì phải bồi thường công khai phá 1 đồng/1m2, do ông Vũ Lai chủ tịch xã Cây Gáo đã đưa ra qui định trên. Mấy tháng sau, bà Chuột đến nhận là chủ đất. Do tôi bận đi học đánh máy ở Biên Hòa, mẹ hẹn chờ tôi về, rồi mẹ bệnh phải đi cấp cứu nằm viện, khi về thì thấy bà Mai Thị Ngọc Châu, (cháu bà Lượng), đã cất cái chòi nhỏ bên hông đất của tôi. 

Cái cày đã đặt vào con trâu, bà Chuột đi cùng bà Lượng đến nhà tôi, xin thông cảm để cho bà bán 1 nửa (tức 1.000+m2), vì hoàn cảnh khó khăn, con vừa qua đời. Cũng vì tình người nên tôi để cho bà Chuột bán 1 nửa, phần còn lại 1.000m2 của tôi, và bà Chuột không lấy tiền công khai phá như qui định. Việc thỏa thuận giữa tôi và bà Chuột đã xong. Sau này bà Chuột bán lại cho bà Mai Thị Ngọc Châu 400m2 giá 6 đồng/1m2, còn lại 600m2 bà Chuột bán cho bà Hoàng Thị Liên 80 tuổi, hiện con trai bà Liên đang ở (không phải bà Võ Thị Chí Liên, vợ ông Nguyễn Hoàng Tấn).

Vì thương tình bà Chuột tôi mới dễ dãi để bả bán 1.000m2, nếu tính ra để tôi bán, tôi sẽ kiếm nhiều tiền hơn. Cũng vì vậy mà sự thương cảm của tôi đã biến thành tranh chấp với hàng xóm mấy chục năm nay khi mà họ muốn lấy hết đất của tôi, cộng thêm sự xen vào có mục đích của chính quyền vì nhiều lý do, thành ra diện tích ở của tôi thay đổi liên tục theo nhiều sự khác nhau của quyết định, văn bản, bản đồ. Trên giấy tờ của các “Quan”, tôi có tới 2.265m2, (hiện tại nhà tôi đang ở và sử dụng chỉ có khoảng hơn 700m2, ), và có khi tôi ở trên mảnh đất ảo, vì các bản đồ “ảo”, có nghĩa là nhà tôi không nằm trên miếng đất nào trong giấy tờ. Chính quyền cho nhân dân đăng ký chứng nhận CNQSDĐ, tôi đã đăng ký từ năm 1999 đến nay vẫn chưa được cấp chứng nhận CNQSDĐ. Đó là cái “mê hồn trận” mà tôi bị chính quyền đẩy vào. Cuối tháng 3 năm 2015, chính quyền cho tôi đăng ký lại, chẳng biết khi nào mới có sổ đỏ!?

Từ đó cho đến nay, đất tôi ở và xây dựng đã thành khoảnh, không một ai nói tôi cướp của ai, không một giấy tờ chứng minh tôi cướp đất và chính quyền cũng không chế tài về tội ăn cướp. Nhưng chỉ tội là đất tôi vẫn còn đang tranh chấp, chính quyền đá qua đá lại như quả bóng, không giải quyết dứt khoát cội rễ để biết rõ ai ăn cướp của ai? Đó cũng chính là một tệ nạn ở nông thôn do bọn “Tân Cường Hào Ác Bá” hoành hành. Họ có giây mơ rể má từ địa phương đến trung ương, cấu kết với nhau để cướp đất đai của những người cô thế, nhất là những gia đình Việt Nam Cộng Hòa. Nó cũng là cái hệ lụy do chính chính quyền gây ra đã làm khổ biết bao nhiêu dân oan trong đó có gia đình tôi!

Rồi chuyện bắt đầu xảy ra, khi tôi đang bị ở tù vào ngày 14-8-2008 tại Hà Nội vì biểu tình đòi lại đất đai, đòi công lý thì ở nhà hai bên hàng xóm xây tường ngoằn ngoèo bao quanh “căn nhà duy nhất bằng ván ọp ẹp của gđ tôi”. Lý do rất đơn giản là chính quyền rỉ tai cho họ là tôi sẽ bị ở tù mọt gông không có ngày về vì tội “phản động”, nên hai bên hàng xóm vô tư xây tường bao chiếm, ăn cướp có bảo kê. 

Ngoài đường nhìn vào bên tay phải (phía Bắc), ông Hoàng Tất Được (CB tham mưu pháp lý cho UB Huyện Vĩnh Cửu), cùng vợ là bà Nguyễn Thị Sơn Trà, cướp hẳn thửa đất số 54 tờ bản đồ 88, diện tích 496,8m2, mà mẹ tôi đã đứng tên đăng ký CNQSDĐ từ năm 1999, nhưng không được cấp sổ đỏ với lý do đất đang tranh chấp từ năm 1989, và chính quyền không một lần mời giải quyết dầu có rất nhiều đơn khiếu nại. Phía bên tay trái (phía Nam), đang tranh chấp đất này với vợ chồng ông Trần Văn Thọ (dì bà Châu), rồi đến bà Mai Thị Ngọc Châu từ ngày 2 tháng 8 năm 1988 vì đã lấn sang đất của tôi, tiếp theo sau này với vợ chồng Võ Chí Liên + Nguyễn Hoàng Tấn (Tấn là côn an bị nghỉ việc là người mua đất của bà Châu). Trong lúc tôi được ngồi tù ở Hà Nội, Liên+Tấn xây tường ngoằn ngoèo bao chiếm thêm đất. Nhiều lúc xây lén lấn chiếm, tôi phát giác và ngăn cản thì ông Tuấn Anh (chồng bà Châu), xuống giọng năn nỉ tôi “xin thêm miếng đất”. Nhiêu đó cũng đủ thấy họ không coi luật pháp ra gì khi ngang nhiên chiếm đất mà không bị tù tội. Tôi đã có đơn tố cáo ông Tuấn Anh vào ngày 8-12-2010, nhưng không ai giải quyết!

Hết án tù ở Hà Nội ngày 14-11-2009, tôi liền nộp đơn cho chính quyền thông báo đập tường. Tôi đã đập bức tường đó 2 lần khi mà nhiều đơn khiếu nại xin được giải quyết mà chính quyền địa phương giả điếc làm ngơ. Lần thứ ba, vào ngày 26-3-2012, tôi đập một phần nhỏ bức tường nhỏ mới xây lại rất kiên cố và ngay ngắn, khác với những bức tường cũ, trị giá thiệt hại đến 13.611.500 đồng theo định giá của chính quyền, thì gia đình tôi 3 người và 2 anh em người phụ giúp bị bắt ở tù. Tôi thì bị 2 năm tù, còn những người khác ít hơn. Đây là vụ án dân sự, nhưng chính quyền cố tình biến thành hình sự để bắt cả nhà tôi phải ở tù như bà Liên đã từng hăm dọa ngày 26-3-2012: “Tao cho cả nhà mày đi tù, đất của tao là đất của nhà nước”. Thế là cả nhà tôi bị ở tù.

Ra tù lần này vào ngày 6-7-2014, tôi tiếp tục thưa kiện vì chính quyền quá cố ý, bất công, tàn ác trong việc không giải quyết những bức tường xây trái phép của vợ chồng Liên+Tấn và những năm tù trái luật dành cho gia đình tôi. Và tôi yêu cầu chính quyền địa phương đến đo đạc để xác định lằn ranh vì tôi đã trưng ra rất nhiều giấy tờ, hình ảnh xưa cũ để xác minh rằng Liên+Tấn chiếm đất trong khi họ chỉ có 398m2, mua lại của bà Mai Ngọc Châu, mà tại sao lại xây tường bao quanh lấn chiếm thêm.

Nói rõ thêm là cán bộ xuống đo đạc là vì tôi có cả tấn đơn thưa kiện chớ không phải vì thương tình con kiến nhỏ này. Đo đạc thì họ cứ đo, chứ việc có giải quyết hay không thì hạ hồi phân giải vì việc đo đạc đã xảy ra vài chục lần bởi thị trấn, huyện, tỉnh, côn an,... chớ không phải mới vừa có. Lần này tôi thách chính quyền ba cấp (thị trấn, huyện, tỉnh), mời luật sư báo chí làm chứng, để tranh luận công khai với tôi việc đo thực tế đất cho ra diện tích 2.265m2 đất theo những bản đồ của chính quyền, mà tôi đang có trong tay!?

Tóm tắc sự việc xảy ra trong video sáng vào lúc 8giờ 30 phút sáng ngày 23-4-2015, tại tổ 3-khu phố 6-thị trấn Vĩnh An như sau: Do việc bà Võ Thị Chí Liên (vợ của Nguyễn Hoàng Tấn người đã mua 398m2 của bà Mai Ngọc Châu), ra sức ngăn cản cán bộ đo đạc, chửi bới và hăm dọa giết tôi vì có cán bộ đến đo đạc:

Chỉ có 398m2, sau khi bán đã bán 398m2 cho vợ chồng Liên+Tấn thì làm sao bà Châu vẫn còn đất xây một căn nhà vào tháng 9 năm 2009 cho Tuấn Anh (chồng bà Châu), đang ở nguyên vẹn phía sau. Vậy đất ở đâu để có 398m2 vừa bán vừa ở ?! 

Rồi vợ chồng Liên+Tấn cũng chỉ có 398m2 mua lại của bà Châu, thì tại sao lại xây những bức tường ngoằn ngoèo lấn sang hết diện tích 1.000m2 đất của tôi nhiều lần có côn an, đầu gấu bảo kê mà không bị xử phạt theo BLHS? Tội lấn chiếm đất trái phép cũng không bị xử lý theo luật đất đai?

Tôi chỉ có đập 1 phần nhỏ bức tường mới xây lần thứ ba mà tôi bị lãnh 2 năm tù, hai em trai và 2 người phụ giúp cũng ở tù. Còn bà Châu+Kiệt và Liên+Tấn thì sao???

Quyển sổ đỏ của bà Mai Thị Ngọc Châu sang nhượng cho Liên+Tấn được làm một cách quá nhanh chóng trong vòng 20 ngày trong khi đất đang tranh chấp, đã vi phạm Khoản 3 Điều 30 của luật đất đai về qui trình cấp giấy CNQSDĐ? Sao không có biên bản xác định vị trí ranh giới đất? Trong sổ đỏ chỉ ghi chiều ngang chiều dài, không có tứ cận Đông Tây Nam Bắc, nên sổ đỏ này đặt ở vị trí nào cũng được? Sao không xét xử quyển sổ đỏ này vì nó mà g/đ tôi 5 người ở tù, tổng cộng 60 tháng tù giam?

Và bây giờ, bà Liên hăm dọa giết tôi sao không bị xử lý theo Điều 103 BLHS?. Chửi và thóa mạ cán bộ và nhà nước, sao không bị xử theo luật?. Chửi tôi phản động không căn cứ, sao không xử?. Chửi tôi bán nước, sao nhà nước không quan tâm? Vì rõ ràng y thị chửi chính quyền bán nước. Bán nước thì phải cầm quyền, có quyền lực trong tay, trong khi tôi chỉ là một cô gái nhà quê, thì câu chửi đó ám chỉ nhà nước là đúng nhất? 

Trở lại việc bị chửi bới và bị hăm dọa thì tôi đã bị rất nhiều lần. Có những lần tôi thâu được bằng chứng và gởi cho ông Trung tá Nguyễn Văn Ru (Trưởng côn an thị trấn Vĩnh An), để tố cáo, nhưng mọi chuyện vẫn là “em RU con bà Rù”. Giả sử như tôi chỉ một lần hăm dọa giết người như “chuyện đập bức tường của tôi là đúng 100%”, thì chắc phải bị ở tù mọt gông để hàng xóm vô tư chiếm đất đai.

Căn cứ vào những việc trên thì mới thấy rõ rằng có một cái gì ở đằng sau lưng bà Châu và vợ chồng Liên+Tấn, nên việc bà Liên nói rằng có sổ đỏ; cấp trung ương, cấp tỉnh, quan tòa đã phán; chửi bới tôi là ăn cướp, phản động, bán nước; hăm dọa giết tôi; nói rằng xã huyện này không là cây đinh gì hết; và còn chửi chính quyền làm cái L*** gì tao, mà vẫn bình chân như vại thì xem ra y thị coi chính quyền không có ký lô gam nào cả! 

Câu hỏi đặt ra: Trong video bà Liên nói rằng: “Tao có tiền, tao mua UB tỉnh Đồng Nai cấp giấy tờ cho tao đàng hoàng”, vậy hỏi bà được cấp đất trong diện nào?; “TW đã giải quyết rồi”, vậy hỏi TW nào?; “Tòa án Tỉnh (Tòa Phúc Thẩm), chịu dưới sự chỉ đạo về phiên tòa của tôi”, vậy ai chỉ đạo? Nếu không có câu trả lời với bằng chứng thì tất cả có phải do bà Liên “chỉ đạo” bằng thủ tục “đầu tiên” hoặc “uy quyền” cho chính quyền không? 

Cuối cùng việc ai cướp đất của ai? Tôi khẳng định 100%, thửa đất 53 tờ bản đồ 88 tổng diện tích 1.400m2, do tôi đã đăng ký CNQSDĐ từ năm 1999, đo bao chung với bà Mai Thị Ngọc Châu. Sau đó bà Châu tách ra thửa 327, có diện tích 398,2m2 (400m2), và được cấp giấy CNQSDĐ vào ngày 10-12-2009. Thửa đất này đã bán lại vợ chồng Liên+Tấn vào ngày 30-12-2009. Hiện thửa 53 tờ bản đồ 88, diện tích còn lại 1.000m2 là của tôi đang có nhà ở, và đường ranh phải tính từ tâm của cái giếng nhà bà Châu mà trước đây hai nhà đã đào chung. Vậy kết quả là bà Châu sau khi bán 398m2 vẫn còn một căn nhà phía sau, Ông Tuấn Anh (chồng bà Châu), đang ở được xây vào tháng 9 năm 2009, phải được tính vào diện tích 398,2m2 nào của bà Châu đã bán cho Liên+Tấn?. Nếu căn cứ đo đạc theo những bằng chứng trung thực thì ai ăn cướp đất của ai? Nếu tôi cướp đất của Liên+Tấn hoặc của bà Châu, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. 

Để kết luận, nếu như chính quyền làm đúng thì gia đình ông Đoàn Văn Vươn đâu có bắn súng hoa cải để phải ngồi tù. Nếu như chính quyền làm đúng thì g/đ ông bà Nguyễn Trung Can + Mai Thị Kim Hương ở Long An bị buộc phải kháng cự quyết liệt để rồi tất cả được ở tù. Và nếu như chính quyền làm đúng thì tôi đâu có mất cả tuổi xuân đi khiếu kiện để trở thành con kiến nhỏ và cũng là cái gai của tỉnh Đồng Nai và TW.

Hỡi ông thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng! Nếu tôi là người thứ ba nối bước theo gđ ông Đoàn Văn Vươn, gđ ông Nguyễn Trung Can, và sau đó cả chục, cả trăm, cả ngàn dân oan khác khắp cả nước tiếp nối thì ông nghĩ sao? Ông có thể nghĩ rằng một vết nứt nhỏ của vách tường có thể làm sụp đổ “thành trì cách mạng” của ông không? Vết nứt đó chính ông cũng đã công nhận nó hiện hữu như việc ông công nhận là vụ gđ ông Vươn do cán bộ làm sai; cũng chính ông khi làm phó thủ tướng đã ra liền tù tì 4 công văn có tên và ý kiến chỉ đạo của ông để giải quyết chuyện của tôi với những dấu mộc đỏ chói rất “hùng dũng” và “Tấn Dũng”, nhưng về địa phương các cán bộ quăng vào sọt rác; và thêm nữa là vụ g/đ ông Nguyễn Trung Can, rồi ông cũng sẽ nói rằng do cán bộ làm sai. Đó là những vết nứt trên bức tường “thành trì cách mạng” của ông. Mong ông mở mắt xuống những vụ đã qua để bịt vết nứt đã có, đừng để tôi và những dân oan khác là những vết nứt tiếp theo.

Còn về chính quyền địa phương, (thị trấn, huyện và tỉnh), đã hành hạ tôi mấy chục năm nay vì những lý do không rõ ràng, thì việc bà Võ Thị Chí Liên với những bằng chứng không chối cải được là chửi bới, hăm dọa người khác, và xem thường luật pháp thì các ông có những biện pháp gì để giử lấy bộ mặt nhà nước do dân, vì dân, lo cho dân hay là các ông vẫn còn úp mặt vào cái L*** của Võ Thị Chí Liên như y thị đã chửi thẳng vào mặt các ông?

Từ những bằng chứng nêu trên, nếu gia đình tôi có bị xảy ra như: tai nạn, ám sát thì nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước tòa án quốc tế về vấn nạn này! Và những lời tôi kể trên đều có những bằng chứng, nhân chứng trên giấy tờ, hình ảnh và video.

Kính,



____________________________________________

Xin xem bài báo và những link về việc oan sai của tôi:


1. DO-LTKT: Bị Bắt (phần 1) 


2. DO-LTKT: Bị Bắt (phần 2) 


3. DO-LTKT: Tuyệt Thực Trong tù 


4. DO-LTKT: Ra Tòa Sơ Thẩm 


5. DO-LTKT: Bị Kết Án 2 Năm Tù 


6. DO-LTKT: Chống Án


7. DO-LTKT: Ra Tòa Phúc Thẩm phần I 


8. DO-LTKT: Ra Tòa Phúc Thẩm phần II